Thực hiện chế tài phạt vi phạm hợp đồng như thế nào?
Trong nội dung bài viết này chúng tôi sẽ tư vấn về vấn đề: Thực hiện chế tài phạt vi phạm hợp đồng như thế nào?
Thực hiện chế tài phạt vi phạm hợp đồng như thế nào?
Trong nội dung bài viết này chúng tôi sẽ tư vấn về vấn đề: Thực hiện chế tài phạt vi phạm hợp đồng như thế nào?
Căn cứ và điều kiện áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng
Chế tài phạt vi phạm với tư cách là một trong các hình thức trách nhiệm pháp lý được áp dụng để xử lý vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nói chung được quy định trong hai văn bản pháp luật: Bộ luật Dân sự 2015 (Điều 418) và Luật Thương mại 2005 (Điều 300, Điều 301). Về cơ bản, quy định về chế tài này trong hai đạo luật tương đối giống nhau về điều kiện áp dụng, chỉ khác ở quy định về mức phạt vi phạm trong từng trường hợp cụ thể và mối quan hệ giữa chế tài này với các chế tài khác.
– Trước hết, theo quy định tại Khoản 1 Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015: “phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng”. Tương tự, Điều 300 Luật Thương mại 2005 cũng quy định: phạt vi phạm là hình thức chế tài được áp dụng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận”.
Như vậy, điều kiện trước hết để có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm là sự tồn tại thỏa thuận giữa các bên hợp đồng về việc một bên được yêu cầu bên kia trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng, hay nói cách khác, một bên không thể yêu cầu bên kia phải chịu phạt vi phạm khi các bên không có thỏa thuận về vấn đề này. Trong thực tế, không hiếm trường hợp bên bị vi phạm yêu cầu áp dụng phạt vi phạm nhưng trước đó giữa bên bị vi phạm và bên vi phạm lại không tồn tại một thỏa thuận nào.
Vì vậy, yêu cầu này không thể thỏa mãn các điều kiện áp dụng. Không chỉ thế, vì phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên nên ngay cả khi vụ tranh chấp giữa các bên được đưa ra giải quyết bởi Tòa án/Trọng tài thương mại thì Tòa án/Trọng tài thương mại cũng không thể buộc bên vi phạm phải trả tiền phạt khi các bên không có thỏa thuận. Trước đây, nếu căn cứ vào các quy định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 hay Luật Thương mại 1997 thì bên bị vi phạm hoặc Tòa án/trọng tài thương mại hoàn toàn có quyền được áp dụng chế tài phạt vi phạm trong trường hợp các bên không có thỏa thuận vì phạt vi phạm được coi là một chế tài luật định thay vì là một chế tài thỏa thuận như cách quy định hiện nay của Luật Thương mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2015.
Bên cạnh đó, vì cả Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại đều không quy định rõ ràng nên có một vấn đề đặt ra: xác định thời điểm xác lập thỏa thuận về phạt vi phạm như thế nào mới hợp lý? Phạt vi phạm có bắt buộc phải là một điều khoản của hợp đồng/phụ lục của hợp đồng thì mới có giá trị pháp lý hay không? Theo quy định, phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng”, tức là, phạt vi phạm phải là một điều khoản của hợp đồng mới có giá trị pháp lý.
Tuy nhiên, nếu như căn cứ vào mục đích của việc áp dụng chế tài phạt vi phạm thì chỉ cần các bên thỏa thuận về phạt vi phạm trước khi phát sinh hành vi vi phạm hợp đồng thì chế tài này vẫn có thể phát huy hết chức năng của nó. Theo đó, nếu như trong hợp đồng/phụ lục của hợp đồng các bên chưa thỏa thuận về phạt vi phạm thì sau khi hợp đồng có hiệu lực, các bên vẫn có quyền bổ sung thỏa thuận này vào các văn bản phục vụ cho quá trình thực hiện hợp đồng hoặc văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng, miễn là thỏa thuận này được xác lập trước khi xảy ra hành vi vi phạm.
Thứ hai, điều kiện tiếp theo là đã xảy ra hành vi vi phạm mà các bên thỏa thuận là điều kiện để áp dụng chế tài phạt vi phạm. Căn cứ vào quy định tại Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015 và Điều 300 Luật Thương mại 2005 có thể thấy, pháp luật không bắt buộc các bên phải thỏa thuận cụ thể hành vi vi phạm nghĩa vụ nào mới là căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng, theo đó, bất cứ một vi phạm nghĩa vụ nào cũng đều có thể được coi là điều kiện áp dụng chế tài này.
Tuy nhiên, thực tiễn hợp đồng cho thấy thỏa thuận phạt hợp đồng thường chỉ giới hạn ở các vi phạm nghĩa vụ chính của hợp đồng, ví dụ: Theo quy định của Luật Thương mại 2005, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, trong hợp đồng mua bán hàng hóa, xuất phát từ mục đích cơ bản của việc giao kết hợp đồng thì nghĩa vụ chính đối với bên bán là nghĩa vụ giao hàng và chứng từ liên quan đến hàng hóa (khoản 1 Điều 34), còn nghĩa vụ chính đối với bên mua là nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận (khoản 1 Điều 50).
Đối với hợp đồng cung ứng dịch vụ, nghĩa vụ chính đối với bên cung ứng dịch vụ là cung ứng các dịch vụ và thực hiện những công việc có liên quan một cách đầy đủ, phù hợp với thỏa thuận và theo quy định của Luật Thương mại 2005 (khoản 1 Điều 78), còn nghĩa vụ chính đối với bên sử dụng dịch vụ (khách hàng) là thanh toán tiền cung ứng dịch vụ như đã thỏa thuận trong hợp đồng (khoản 1 Điều 85 Luật Thương mại 2005).
Thứ ba, điều kiện tiếp theo cần phải đáp ứng để có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng đó là hành vi vi phạm nghĩa vụ không thuộc các trường hợp được miễn trách nhiệm theo quy định tại Điều 294 Luật Thương mại 2005. Các trường hợp được miễn trách nhiệm, căn cứ áp dụng các trường hợp này đã được phân tích cụ thể trong phần I.
Mặc dù yếu tố “lỗi” không được xem như là một trong các căn cứ để áp dụng chế tài thương mại và lỗi trong thương mại được xác định theo nguyên tắc “lỗi suy đoán”, nhưng theo quy định Luật Thương mại 2005, yếu tố “lỗi” vẫn được xem như là điều kiện áp dụng chế tài phạt vi phạm trong trường hợp cụ thể. Theo quy định tại khoản 1 Điều 266 Luật Thương mại 2005: “trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có kết quả sai do lỗi vô ý của mình thì phải trả tiền phạt cho khách hàng…”.
Thiết nghĩ, khái niệm “phạtluôn đi liền với khái niệm “lỗi”; chế tài phạt vi phạm hợp đồng khi đó sẽ là chế tài được áp dụng khi một bên có lỗi (nếu không có lỗi thì không có phạt). Trong các trường hợp miễn trách nhiệm, hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của bên vi phạm xảy ra không phải do lỗi của bên vi phạm nên trong những trường hợp này không thể yêu cầu bên vi phạm phải chịu trách nhiệm pháp lý cho hành vi vi phạm của mình. Tất nhiên muốn được giải phóng khỏi những hậu quả pháp lý bất lợi do việc áp dụng chế tài thương mại thì | bên vi phạm phải có nghĩa vụ chứng minh vi phạm của mình thuộc các trường hợp được miễn trách nhiệm (khoản 2 Điều 294 Luật Thương mại 2005).
Thực hiện chế tài phạt vi phạm hợp đồng:
Để có thể vận dụng quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 nhằm thực hiện chế tài phạt vi phạm hợp đồng trên thực tế, các bên cần lưu ý một số nội dung như sau:
Một là: Về mức phạt vi phạm hợp đồng
Mức phạt vi phạm hợp đồng là khoản tiền phạt bên bị vi phạm được quyền yêu cầu bên vi phạm phải trả cho mình do bên vi phạm đã thực hiện hành vi vi phạm. Trước đây, theo quy định tại Điều 378 Bộ luật Dân sự 1995, mức phạt vi phạm có thể là một khoản tiền nhất định hoặc được tính theo tỷ lệ phần trăm của giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm, nhưng mức cao nhất không quá 5%”.
Như vậy, các bên không hoàn toàn tự do thỏa thuận mức phạt vi phạm hợp đồng. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015: “Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”. Như vậy, hiện nay, về cơ bản Bộ luật Dân sự không còn giới hạn mức phạt vi phạm tối đa, và các bên được quyền tự do định đoạt mức phạt vi phạm hợp đồng, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
Mặt khác, theo quy định của Luật Thương mại 2005 (Điều 301): “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”. Mặc dù việc lựa chọn chế tài phạt vi phạm phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên, nhưng các bên lại không được quyền tự do hoàn toàn trong việc quyết định mức phạt vi phạm hợp đồng thương mại mà chỉ được định đoạt mức phạt này trong giới hạn do pháp luật quy định.
Trong lịch sử pháp luật hợp đồng thương mại, Luật Thương mại 2005 không phải là văn bản pháp lý đầu tiên và duy nhất quy định giới hạn mức phạt vi phạm tối đa mà trong các văn bản điều chỉnh hoạt động thương mại trước đây như Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 hay Luật Thương mại 1997 cũng đã có những quy định tương tự. Chẳng hạn, trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, mức phạt vi phạm các bên được quyền thỏa thuận “từ 2% đến 12% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm”.
Như vậy, theo quy định của Luật Thương mại 2005, khi thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng, các bên chỉ được quyền thỏa thuận mức phạt vi phạm tối đa không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm. Kể cả trong trường hợp các bên chỉ thỏa thuận về phạt vi phạm mà không nêu rõ mức phạt là bao nhiêu thì khi giải quyết tranh chấp, Tòa án/Trọng tài thương mại cũng chỉ được yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt tương ứng hoặc thấp hơn với mức phạt tối đa này, tùy từng trường hợp cụ thể.
Thiết nghĩ, mục đích khi đặt ra chế tài này chủ yếu nhằm răn đe các bên trong quan hệ hợp đồng và hướng các chủ thể này đến việc thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình. Ngay cả khi vi phạm đã xảy ra, việc áp dụng chế tài này cũng vẫn sẽ có tác dụng chấn chỉnh hành vi vi phạm của bên vi phạm để bên này không tiếp tục thực hiện những vi phạm tiếp theo, tránh trường hợp gây ra hậu quả đáng tiếc và không thể cứu vãn được cho quan hệ hợp đồng.
Chính vì vậy, việc đưa ra một mức phạt vi phạm quá cao sẽ không hợp lý và không đảm bảo được tính răn đe của chế tài này. Trên thực tế, mặc dù pháp luật đã có quy định cụ thể nhưng không hiếm trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt vi phạm hợp đồng rất cao, cao hơn nhiều so với mức phạt vi phạm tối đa mà pháp luật cho phép, chẳng hạn: 15% trên giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm,v.v…
Nếu lúc này tranh chấp được đưa ra trước cơ quan tố tụng và luật áp dụng là luật Việt Nam thì thỏa thuận phạt vi phạm này sẽ không có giá trị. Tuy nhiên, việc thỏa thuận về mức phạt 15% không được thừa nhận không có nghĩa là không áp dụng phạt vi phạm. Ở đây, cơ quan tố tụng chỉ áp dụng phạt vi phạm ở mức tối đa mà pháp luật cho phép.
Bên cạnh đó, việc áp dụng chế tài này cũng cần lưu ý: phần không được vượt quá ở đây là “8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm” chứ không phải là “8% tổng giá trị hợp đồng”. Điều đó có nghĩa là cần phải xác định mức phạt vi phạm mà các bên đã thỏa thuận với “8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Chỉ khi mức thứ nhất cao hơn mức thứ hai thì giới hạn trên mới được áp dụng.
Ví dụ: Trong hợp đồng đại lý thương mại giữa M và N, các bên thỏa thuận mức phạt hợp đồng là 3% trên tổng giá trị hợp đồng. Khi có tranh chấp xảy ra, M (bên bị vi phạm) yêu cầu Tòa án phạt N (bên vi phạm) theo mức thỏa thuận như trên. Với tình huống này, rõ ràng thỏa thuận về mức phạt vi phạm hợp đồng của M và N là không đúng với quy định tại Điều 301 Luật Thương mại 2005.
Nhưng giả sử, mức phạt này thấp hơn 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm thì khi đó, Thẩm phán sẽ áp dụng mức phạt nào? Ở đây, cần hiểu Điều 301 theo hướng mức phạt do các bên thỏa thuận không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm là được chấp nhận. Vì vậy, trong trường hợp này, mức phạt 3% trên tổng giá trị hợp đồng thấp hơn mức 8% trên giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm nên được chấp nhận”.
Ngoài ra, khi áp dụng quy định về giới hạn mức phạt vi phạm tối đa theo quy định tại Điều 301 Luật Thương mại 2005, có một ngoại lệ về mức phạt vi phạm được quy định trực tiếp trong Luật Thương mại 2005 là trường hợp phạt vi phạm do lỗi vô ý giám định sai. Chế tài phạt vi phạm trong trường hợp này là chế tài luật định, nghĩa là khách hàng có quyền yêu cầu thương nhân giám định trả một khoản tiền phạt do vô ý giám định sai căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 266 Luật Thương mại 2005.
Các bên chỉ cần thỏa thuận mức phạt vi phạm trong phạm vi tối đa bằng 10 lần phí thù lao giám định. Trường hợp các bên không thỏa thuận mức phạt vi phạm, bên bị vi phạm có thể yêu cầu phạt đến mức tối đa này. Không chỉ thế, trong trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác đi về chế tài phạt vi phạm thì áp dụng quy định của luật chuyên ngành (khoản 2 Điều 4 Luật Thương mại 2005). Ví dụ: Theo quy định tại khoản 2 Điều 146 Luật Xây dựng 2014: “Đối với công trình xây dựng bằng nguồn vốn Nhà nước…mức phạt không vượt quá 12% giá trị hợp đồng bị vi phạm”.
Thứ hai: Về mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm với các chế tài thương mại khác
– Mối quan hệ với chế tài bồi thường thiệt hại
Theo quy định tại khoản 3 Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”.
Với quy định này, Bộ luật Dân sự 2015 đã xác định mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm với chế tài bồi thường thiệt hại, cụ thể: Việc áp dụng đồng thời phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại chỉ được thực hiện khi các bên có thỏa thuận về sự kết hợp này. Nếu các bên không có thỏa thuận về việc kết hợp hai chế tài mà chỉ có thỏa thuận về phạt vi phạm thì kể cả trong trường hợp hành vi vi phạm nghĩa vụ trực tiếp gây ra thiệt hại thực tế (giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế có mối quan hệ nhân quả) thì bên bị vi phạm chỉ có thể yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt vi phạm hợp đồng mà không thể đòi bồi thường thiệt hại.
Mặt khác, nếu các bên thỏa thuận khi xuất hiện hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng bên vi phạm chỉ bị áp dụng chế tài phạt vi phạm thì khi thiệt hại thực tế xảy ra, bên bị vi phạm cũng không được quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại mà chỉ có thể yêu cầu trả tiền phạt.
Quy định về mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong Bộ luật Dân sự của Việt Nam khá tương đồng với quy định của một số nước Châu Âu, theo đó, một số nước Châu Âu cũng không cho phép kết hợp phạt vi phạm với chế tài bồi thường thiệt hại. Quy định như vậy xuất phát từ lý do khoản tiền mà các bên đã thỏa thuận thay thế vấn đề bồi thường thiệt hại, cũng có nghĩa là bên có quyền lợi bị vi phạm chỉ có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm.
Trong khi đó, theo quy định tại Điều 307 Luật Thương mại 2005: “Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”.
Như vậy, khác với Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại cho phép bên bị vi phạm được quyền áp dụng song song hai chế tài này ngay cả khi các bên không có thỏa thuận về việc kết hợp. Theo đó, chỉ cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện áp dụng là bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có thể vừa yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt và vừa yêu cầu bên này bồi thường thiệt hại cho thiệt hại thực tế mà hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đã gây ra.
Bên cạnh đó, Luật Thương mại 2005 cũng đã có quy định khác đi về vấn đề này đối với hoạt động giám định thương mại. Theo đó, trong trường hợp giám định sai do lỗi vô ý thì khách hàng của thương nhân giám định chỉ được áp dụng chế tài phạt vi phạm, còn trong trường hợp giám định sai do lỗi cố ý thì chỉ áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại (Điều 266).
Có thể thấy, pháp luật nước ta không thống nhất về việc kết hợp hai loại chế tài. Sự khác nhau này có lẽ là vì Luật Thương mại 2005 giới hạn mức phạt vi phạm tối đa nên việc kết hợp này có thể được chấp nhận. Ngược lại, hiện nay Bộ luật Dân sự không còn giới hạn mức phạt vi phạm nữa nên việc kết hợp hai chế tài này có thể dẫn đến việc bên vi phạm phải trả một khoản tiền rất lớn so với thiệt hại thực tế. Tuy nhiên, vì quy định của Bộ luật Dân sự không loại trừ quy định của các Luật có liên quan khi những quy định này không trái với nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Dân sự nên đối với những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thương mại liên quan đến việc áp dụng chế tài thương mại, Luật Thương mại 2005 vẫn được phép áp dụng.
– Mối quan hệ với chế tài hủy bỏ hợp đồng
Hủy bỏ hợp đồng là chế tài liên quan đến sự tồn tại của hợp đồng bị vi phạm nhưng chế tài này không đủ để đảm bảo quyền lợi của bên bị vi phạm, bởi việc vi phạm dẫn đến hủy bỏ hợp đồng có thể gây thiệt hại. Do đó, việc áp dụng chế tài phạt vi phạm sẽ giúp bền bị vi phạm lấy lại phần nào sự cân bằng. Cả Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 đều không nêu rõ mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài hủy bỏ hợp đồng, nhưng thực tiễn pháp lý theo hướng cho phép kết hợp hai chế tài này’.
Ba là: Về sự tồn tại của chế tài phạt vi phạm khi hợp đồng chính không hợp pháp
Khi phạt vi phạm là một thỏa thuận trong hợp đồng nhưng hợp đồng này lại bị vô hiệu theo các căn cứ quy định trong Bộ luật Dân sự 2015 thì về nguyên tắc, thỏa thuận phạt vi phạm sẽ không còn giá trị pháp lý. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy vì khi hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ thì tất cả các điều khoản trong hợp đồng sẽ không còn giá trị bắt buộc đối với các bên.
Lúc này, các bên sẽ khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả”. Bên cạnh đó, vì chế tài phạt vi phạm được áp dụng nhằm mục đích bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng nên khi hợp đồng bị vô hiệu thì sẽ không còn việc thực hiện nghĩa vụ, vì vậy thỏa thuận phạt vi phạm cũng sẽ không còn giá trị nữa.
Liên quan đến vấn đề này cũng cần lưu ý thêm: “Chỉ khi nào hợp đồng mà phạt vi phạm được thiết lập để đảm bảo việc thực hiện bị vô hiệu thì thỏa thuận phạt vi phạm mới không có giá trị pháp lý. Trong thực tế, khi trong một bản giấy tờ có nhiều thỏa thuận khác nhau và trong đó có chế tài phạt vi phạm thì chỉ khi nào thỏa thuận có chế tài phạt vi phạm bị vô hiệu thì thỏa thuận phạt vi phạm mới không có giá trị. Nếu đây là vô hiệu của hợp đồng khác thì, chế tài phạt vi phạm vẫn có giá trị và có hiệu lực bắt buộc đối với hợp đồng mà chế tài này được thiết lập để đảm bảo thực hiện”.
Nguồn: Đại Lý Thuế Gia Lộc