Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
Trong nội dung bài viết này chúng tôi sẽ tư vấn về: Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
Trong nội dung bài viết này chúng tôi sẽ tư vấn về: Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
Khởi kiện
Trình tự khởi kiện tại trọng tài theo LTTTM 2010 chia thành hai loại: khởi kiện tại trung tâm trọng tài và khởi kiện tại trọng tài vụ việc. Cụ thể:
Thứ nhất: Khởi kiện tại trung tâm trọng tài
Khi giải quyết tranh chấp tại trung tâm trọng tài, nguyên đơn làm đơn khởi kiện gửi trung tâm. Nội dung đơn kiện quy định tại khoản 2 Điều 30 LTTTM 2010. Kèm theo đơn khởi kiện, phải có thỏa thuận trọng tài, bản chính hoặc bản sao các tài liệu có liên quan. Việc gửi kèm thoả thuận trọng tài khi khởi kiện thể hiện đặc trưng của giải quyết tranh chấp tại trọng tài, bởi vì chỉ khi có thoả thuận trọng tài thoả mãn điều kiện, trọng tài mới có thẩm quyền giải quyết tranh chấp của các bên. Điều này khiến việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài khác với việc giải quyết tranh chấp tại Toà án, bởi vì khi giải quyết tranh chấp tại toà, các bên không cần thoả thuận lựa chọn Toà án nào sẽ giải quyết cho mình; và nếu có thoả thuận lựa chọn, thẩm quyền của Toà án cũng không phát sinh từ sự thoả thuận của các bên.
Nếu các bên không có thỏa thuận khác, thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ khi trung tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, các tài liệu kèm theo và chứng từ nộp tạm ứng phí trọng tài, trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn khởi kiện của nguyên đơn và những tài liệu theo quy định của pháp luật. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ. Theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, thời hạn này có thể được trung tâm trọng tài gia hạn căn cứ vào tình tiết cụ thể của vụ việc.
Trường hợp bị đơn không nộp bản tự bảo vệ, quá trình giải quyết tranh chấp vẫn được tiến hành. Như vậy, trung tâm trọng tài có vai trò là chủ thể trung gian, đứng giữa các bên để giải quyết tranh chấp. Trung tâm nhận đơn khởi kiện và các tài liệu có liên quan từ nguyên đơn, sau đó gửi bản sao cho bị đơn, và bị đơn có quyền gửi cho trung tâm bản tự bảo vệ để làm căn cứ bảo đảm quyền lợi của mình trước trọng tài. Điều này cho thấy ngay từ đầu, trọng tài đã tham gia vào vụ kiện thông qua thủ tục nhận đơn kiện và tài liệu từ nguyên đơn, gửi bản sao cho bị đơn, nhận tài liệu từ bị đơn để bảo vệ quyền lợi cho các bên tranh chấp.
Bên cạnh việc gửi bản tự bảo vệ, bị đơn cũng có quyền kiện lại nguyên đơn về những vấn đề có liên quan đến vụ tranh chấp (có thể liên quan đến chính vấn đề mà nguyên đơn kiện hoặc vấn đề khác). Đơn kiện lại của bị đơn được gửi cho trung tâm trọng tài cùng thời điểm với việc nộp bản tự bảo vệ của bị đơn. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn kiện lại, nguyên đơn phải gửi bản tự bảo vệ cho trung tâm.
Việc giải quyết đơn kiện lại do hội đồng trọng tài giải quyết đơn khởi kiện của nguyên đơn thực hiện theo quy định về trình tự, thủ tục giải quyết đơn khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy, nếu có đơn kiện lại của bị đơn, đơn kiện đó sẽ được giải quyết đồng thời với đơn kiện chính mà không tách ra giải quyết thành vụ việc riêng. Quy định như vậy khiến các bên vừa đỡ mất thời gian theo kiện, vừa giảm chi phí vụ kiện, vừa giải quyết tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cả nguyên đơn và bị đơn của vụ tranh chấp.
Trước khi hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài, các bên tranh chấp có quyền rút đơn khởi kiện, đơn kiện lại. Trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên có thể sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đơn kiện lại hoặc bản tự bảo vệ. Hội đồng trọng tài có quyền không chấp nhận các sửa đổi, bổ sung này nếu thấy rằng việc đó có thể bị lạm dụng nhằm gây khó khăn, trì hoãn việc ra phán quyết trọng tài hoặc vượt quá phạm vi của thỏa thuận trọng tài áp dụng cho vụ tranh chấp. Quy định này nhằm đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp, và cũng được áp dụng khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu của các bên.
Thứ hai: Khởi kiện tại trọng tài vụ việc
Khi vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài vụ việc, nguyên đơn làm đơn khởi kiện và gửi cho bị đơn. Thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ khi bị đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn, nếu các bên không có thoả thuận khác. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho nguyên đơn và trọng tài viên bản tự bảo vệ, tên và địa chỉ của người mà mình chọn làm trọng tài viên.
Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa thủ tục khởi kiện tại trung tâm trọng tài và thủ tục khởi kiện tại trọng tài vụ việc, bởi vì khởi kiện tại trung tâm trọng tài, nguyên đơn nộp đơn kiện cho trung tâm và bị đơn cũng gửi đơn kiện cho trung tâm. Đối với trọng tài vụ việc, vì trọng tài chỉ được thành lập khi có tranh chấp xảy ra nên khi nguyên đơn khởi kiện, không có trung tâm trọng tài và cũng chưa tồn tại hội đồng trọng tài, do đó các bên gửi trực tiếp cho nhau.
Trong đơn khởi kiện và trong bản tự bảo vệ, nguyên đơn, bị đơn sẽ chọn trọng tài viên cho mình để thành lập hội đồng trọng tài. Tương tự như trọng tài thường trực, đối với trọng tài vụ việc, bị đơn cũng có quyền kiện lại nguyên đơn về cùng nội dung nguyên đơn kiện hoặc nội dung khác, và đơn kiện lại phải gửi cho hội đồng trọng tài và nguyên đơn. Nguyên đơn, bị đơn cũng có quyền rút đơn kiện, đơn kiện lại; sửa đổi, bổ sung đơn kiện, đơn kiện lại hay bản tự bảo vệ.
Thứ ba: Điều kiện thụ lý đơn
Vụ tranh chấp được thụ lý giải quyết tại trung tâm trọng tài hay trọng tài vụ việc khi thoả mãn các điều kiện sau:
– Có thoả thuận trọng tài của các bên lựa chọn trung tâm trọng tài hay trọng tài vụ việc, thoả thuận trọng tài có hiệu lực và có thể thực hiện được trên thực tế
– Có đơn khởi kiện của nguyên đơn gửi cho trung tâm trọng tài hay gửi cho bị đơn và đơn kiện hợp lệ
– Đơn kiện được gửi đúng thời hiệu khởi kiện. Theo Điều 33 LTTTM 2010, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác
– Nguyên đơn đã nộp đủ phí trọng tài. Phí trọng tài gồm: (i) Thù lao trọng tài viên, chi phí đi lại và các chi phí khác cho trọng tài viên; (ii) Phí tham vấn chuyên gia và các trợ giúp khác theo yêu cầu của hội đồng trọng tài; (iii) Phí hành chính; (iv) Phí chỉ định trọng tài viên vụ việc của trung tâm trọng tài theo yêu cầu của các bên tranh chấp; (v) Phí sử dụng các dịch vụ tiện ích khác được cung cấp bởi trung tâm trọng tài. Phí trọng tài do trung tâm trọng tài ấn định (đối với vụ tranh chấp được giải quyết tại trung tâm trọng tài); hoặc do hội đồng trọng tài ấn định (đối với vụ tranh chấp được giải quyết bởi trọng tài vụ việc).
Thành lập hội đồng trọng tài
Điều 39 LTTTM 2010 quy định, thành phần hội đồng trọng tài có thể bao gồm 1 hoặc nhiều trọng tài viên theo sự thỏa thuận của các bên. Trường hợp các bên không có thoả thuận về số lượng trọng tài viên, hội đồng trọng tài bao gồm 3 trọng tài viên. Quy định này khiến LTTTM 2010 giống với Luật Trọng tài Đức (khoản 1 Điều 1034), Luật Mẫu về Trọng tài Thương mại Quốc tế (khoản 2 Điều 10); nhưng khác với Luật Trọng tài Anh (khoản 3 Điều 15 Luật Trọng tài Anh quy định con số mặc định là 1 trọng tài viên).
Đây là quy định tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên khi lựa chọn trọng tài viên, là điểm khác so với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003; bởi vì trước đây, hội đồng trọng tài chỉ có thể gồm 1 hoặc 3 trọng tài viên. Hà Trọng tài viên là người được các bên lựa chọn hoặc được trung tâm trọng tài hay tòa án chỉ định để giải quyết tranh chấp theo quy định (khoản 5 Điều 3 LTTTM 2010). Trọng tài viên là những người thoả mãn các tiêu chuẩn Luật định, cụ thể, trọng tài viên phải: (i) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật Dân sự; (ii) Có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ 5 năm trở lên; (iii) Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu về bằng cấp và thực tế công tác cũng có thể được chọn làm trọng tài viên (khoản 1 Điều 20).
Trọng tài viên cũng không được rơi vào các trường hợp bị cấm như: đang là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên, công chức thuộc toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án; đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích (khoản 2 Điều 20 LTTTM 2010). Quy định về tiêu chuẩn trọng tài viên của LTTTM 2010 khiến Luật Trọng tài của Việt Nam tương tự giống Luật Trọng tài Trung Quốc (Điều 13 Luật Trọng tài Trung Quốc 1994), nhưng khác với Luật trọng tài của một số nước như Anh, Pháp hay Luật Mẫu… vì các văn bản pháp luật này không đặt ra tiêu chuẩn cho trọng tài viên mà để đương sự có toàn quyền lựa chọn, bất kể quốc tịch, bằng cấp, trình độ… của trọng tài viên.
Một là: Thành lập hội đồng trọng tài tại trung tâm trọng tài
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài không quy định khác, việc thành lập hội đồng trọng tài được quy định như sau:
– Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và yêu cầu chọn trọng tài viên do trung tâm trọng tài gửi đến, bị đơn phải chọn trọng tài viên cho mình và báo cho trung tâm trọng tài biết hoặc đề nghị chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định trọng tài viên. Nếu bị đơn không chọn trọng tài viên hoặc không đề nghị chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định trọng tài viên, trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày hết thời hạn quy định, chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định trọng tài viên cho bị đơn.
– Trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện do trung tâm trọng tài gửi đến, các bị đơn phải thống nhất chọn trọng tài viên hoặc thống nhất yêu cầu chỉ định trọng tài viên cho mình. Nếu các bị đơn không chọn được trọng tài viên, trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày hết thời hạn quy định, chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định trọng tài viên cho các bị đơn.
– Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày các trọng tài viên được các bên chọn hoặc được chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định, các trọng tài viên này bầu 1 trọng tài viên khác làm chủ tịch hội đồng trọng tài. Hết thời hạn này mà việc bầu không thực hiện được, trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày hết thời hạn quy định, chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định chủ tịch hội đồng trọng tài.
– Trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do 1 trọng tài viên duy nhất giải quyết nhưng không chọn được trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bị đơn nhận được đơn khởi kiện, theo yêu cầu của 1 hoặc các bên và trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, chủ tịch trung tâm trọng tài sẽ chỉ định trọng tài viên duy nhất (Điều 40 LTTTM năm 2010).
Như vậy, thành lập hội đồng trọng tài tại trung tâm trọng tài, các bên được quyền chọn trọng tài viên sẽ giải quyết tranh chấp cho mình.
Quy định này sẽ khiến quyền tự định đoạt của các bên được bảo đảm hơn; đồng thời cũng khiến việc thành lập hội đồng trọng tài tại trung tâm trọng tài khác biệt với việc thành lập hội đồng xét xử tại Toà án, bởi tại toà, các bên đương sự không được quyền chọn thẩm phán, hội thẩm nhân dân… sẽ giải quyết tranh chấp cho mình mà chỉ được quyền yêu cầu thay đổi nếu thấy người được phân công giải quyết vụ tranh chấp có biểu hiện không vô tư, không khách quan’.
Hai là: Thành lập hội đồng trọng tài vụ việc
Việc thành lập hội đồng trọng tài vụ việc tương tự như việc thành lập hội đồng trọng tài thường trực, đều thể hiện rõ ý chí, quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp trong việc lựa chọn trọng tài viên giải quyết tranh chấp cho mình. Điểm khác biệt giữa thủ tục thành lập hai hội đồng trọng tài này là: đối với trọng tài thường trực, vì có trung tâm trọng tài nên khi bị đơn không chọn được trọng tài viên, các bị đơn không thống nhất chọn được trọng tài viên, các trọng tài viên được chọn không chọn được 1 trọng tài viên khác làm chủ tịch hội đồng trọng tài, các bên không chọn được trọng tài viên duy nhất thì chủ tịch trung tâm trọng tài sẽ chỉ định trọng tài viên cho bị đơn hoặc cho các bên.
Còn đối với trọng tài vụ việc, khi rơi vào các trường hợp kể trên, vì không tồn tại trung tâm trọng tài nên nguyên đơn hoặc các bên có quyền yêu cầu Toà án có thẩm quyền chỉ định trọng tài viên. Toà án có thẩm quyền là tòa án nơi cư trú của bị đơn nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của bị đơn nếu bị đơn là tổ chức; trường hợp có nhiều bị đơn: là tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của một trong các bị đơn đó; trường hợp bị đơn có nơi cư trú hoặc trụ sở ở nước ngoài: là tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn”. Đây là sự hỗ trợ cần thiết của Toà án nhằm giúp các bên và trọng tài vẫn giải quyết tranh chấp tại trọng tài, cho dù một bên hoặc các bên không chọn được trọng tài viên.
Trọng tài viên sau khi được chọn hoặc chỉ định phải từ chối giải quyết tranh chấp hoặc bị thay đổi nếu rơi vào các trường hợp sau: (i) Trọng tài viên là người thân thích hoặc là người đại diện của một bên; (ii) Trọng tài viên có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp; (iii) Có căn cứ rõ ràng cho thấy trọng tài viên không vô tư, khách quan; (iv) Đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sư của bất cứ bên nào trước khi đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp được các bên chấp thuận bằng văn bản (khoản 1 Điều 42 LTTTM 2010). Việc thay đổi trọng tài viên do chủ tịch trung tâm trọng tài; các thành viên còn lại của hội đồng trọng tài hoặc thẩm phán Toà án quyết định, tuỳ từng trường hợp cụ thể.
Chuẩn bị xét xử
Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, hội đồng trọng tài tiến hành các việc sau đây:
Thứ nhất: Xác minh sự việc
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, hội đồng trọng tài có quyền gặp hoặc trao đổi với các bên với sự có mặt của bên kia bằng các hình thức thích hợp để làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan đến vụ tranh chấp. Hội đồng trọng tài có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên tìm hiểu sự việc từ người thứ ba, với sự có mặt của các bên hoặc sau khi đã thông báo cho các bên biết (Điều 45 LTTTM 2010).
Thứ hai: Thu thập chứng cứ
Các bên có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho hội đồng chấp. Theo yêu cầu của một hoặc các bên, hội đồng trọng tài có quyền yêu cầu người làm chứng cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp. Hội đồng trọng tài tự mình hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên, có quyền trưng cầu giám định, định giá tài sản trong vụ tranh chấp để làm căn cứ cho việc giải quyết tranh chấp; đồng thời có quyền tham vấn ý kiến của các chuyên gia. Trong trường hợp hội đồng trọng tài, một hoặc các bên đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được, có thể gửi văn bản đề nghị Toà án có thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến vụ tranh chấp.
Thứ ba: Triệu tập người làm chứng
Theo yêu cầu của một hoặc các bên và xét thấy cần thiết, hội đồng trọng tài có quyền yêu cầu người làm chứng có mặt tại phiên họp giải quyết tranh chấp. Chi phí cho người làm chứng do bên yêu cầu triệu tập người làm chứng chịu hoặc do hội đồng trọng tài phân bổ. Đây là quy định mới của LTTTM 2010 nhằm giúp hội đồng trọng tài có nhiều quyền hạn hơn trong việc giải quyết tranh chấp giữa các bên.
Trường hợp người làm chứng đã được hội đồng trọng tài triệu tập hợp lệ mà không đến phiên họp nhưng không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc giải quyết tranh chấp, hội đồng trọng tài gửi văn bản đề nghị tòa án có thẩm quyền ra quyết định triệu tập người làm chứng đến phiên họp của hội đồng trọng tài. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị triệu tập người làm chứng của hội đồng trọng tài, Chánh án tòa án có thẩm quyền phân công một thẩm phán xem xét, giải quyết yêu cầu triệu tập người làm chứng. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, thẩm phán phải ra quyết định triệu tập người làm chứng.
Thứ tư: Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Các bên tranh chấp có quyền yêu cầu hội đồng trọng tài, tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác…
– Đối với hội đồng trọng tài: theo yêu cầu của một trong các bên, hội đồng trọng tài có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các bên tranh chấp. Quy định này cũng được Luật trọng tài một số nước ghi nhận như: Luật Trọng tài Đức (Điều 1041); Luật Trọng tài Thụy Sĩ (Điều 183)… Các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà hội đồng trọng tài áp dụng tương tự như các biện pháp khẩn cấp tạm thời được Toà án áp dụng đối với vụ tranh chấp được giải quyết tại toà (khoản 2 Điều 49 LTTTM 2010).
Trước khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, hội đồng trọng tài có quyền buộc bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thực hiện nghĩa vụ bảo đảm tài chính. Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác hoặc vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của bên yêu cầu mà gây thiệt hại cho bên yêu cầu, bên bị áp dụng hoặc người thứ ba thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra tòa án để yêu cầu giải quyết bồi thường theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Điều 50 LTTTM 2010. Việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của hội đồng trọng tài được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Theo yêu cầu của một bên, hội đồng trọng tài có quyền thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình giải quyết tranh chấp. Quy định hội đồng trọng tài có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là điểm mới của LTTTM 2010 so với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, làm tăng năng lực giải quyết tranh chấp của trọng tài. Tuy nhiên, vì trọng tài là phi Chính phủ nên việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với đương sự có thể không dễ dàng.
– Đối với tòa án: sau khi nộp đơn khởi kiện, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, một bên có quyền làm đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn, Chánh án tòa án có thẩm quyền phân công một thẩm phán xem xét, giải quyết. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, thẩm phán phải xem xét, quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Thẩm phán phải ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay sau khi người yêu cầu thực hiện biện pháp bảo đảm.
Trường hợp không chấp nhận yêu cầu, thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết. Một bên có quyền yêu cầu tòa án thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhân danh quyền lực Nhà nước trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài sẽ khiến việc giải quyết tranh chấp dễ dàng và hiệu quả hơn.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời mà lại có đơn yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, tòa án phải từ chối và trả lại đơn yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài.
Phiên họp giải quyết tranh chấp
Phiên họp giải quyết tranh chấp được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Các bên có thể trực tiếp hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp; có quyền mời người làm chứng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong trường hợp có sự đồng ý của các bên, hội đồng trọng tài có thể cho phép những người khác tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp. Đây là nguyên tắc xét xử không công khai hay xét xử “kín” – một ưu điểm của tố tụng trọng tài vì có thể bảo đảm được bí mật, uy tín của các bên.
Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc rời phiên họp giải quyết tranh chấp mà không được hội đồng trọng tài chấp thuận bị coi là đã rút đơn khởi kiện. Trong trường hợp này, hội đồng trọng tài tiếp tục giải quyết tranh chấp nếu bị đơn có yêu cầu hoặc có đơn kiện lại.
Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc rời phiên họp giải quyết tranh chấp mà không được hội đồng trọng tài chấp thuận thì hội đồng trọng tài vẫn tiếp tục giải quyết tranh chấp căn cứ vào tài liệu và chứng cứ hiện có.
Theo yêu cầu của các bên, hội đồng trọng tài có thể căn cứ vào hồ sơ để tiến hành phiên họp giải quyết tranh chấp mà không cần sự có mặt của các bên. Quy định này khiến LTTTM 2010 tương thích với Bộ luật Tố tụng dân sự 2015′; Luật trọng tài của một số nước như Đức, Anh hay Luật Mẫu?… Khi có lý do chính đáng, một hoặc các bên có thể yêu cầu hội đồng trọng tài hoãn phiên họp giải quyết tranh chấp.
Theo yêu cầu của các bên, hội đồng trọng tài tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Khi các bên thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ tranh chấp, hội đồng trọng tài lập biên bản hoà giải thành có chữ ký của các bên và xác nhận của các trọng tài viên. Hội đồng trọng tài ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên. Quyết định này là chung thẩm và có giá trị như phán quyết trọng tài. Như vậy, khác với tố tụng tòa án thủ tục hòa giải là bắt buộc khi giải quyết tranh chấp, đối với tố tụng trọng tài, thủ tục hòa giải chỉ được tiến hành theo yêu cầu của các bên tranh chấp.
Vụ tranh chấp được đình chỉ giải quyết trong các trường hợp được quy định tại Điều 59 LTTTM 2010. Khi có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp, các bên không có quyền khởi kiện yêu cầu trọng tài giải quyết lại vụ tranh chấp đó nếu việc khởi kiện vụ tranh chấp sau không có gì khác với vụ tranh chấp trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ trường hợp quy định khác. Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài bằng cách biểu quyết theo nguyên tắc đa số. Trường hợp biểu quyết không đạt đa số, phán quyết trọng tài được lập theo ý kiến của chủ tịch hội đồng trọng tài. Đây là quy định được Luật trọng tài hầu hết các nước ghi nhận như:
Luật Trọng tài Đức (Điều 1052), Luật Trọng tài Thụy Sĩ (Điều 189), Luật Mẫu (Điều 29)…
Phán quyết trọng tài được ban hành ngay tại phiên họp hoặc chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày kết thúc phiên họp cuối cùng. Phán quyết trọng tài phải được gửi cho các bên ngay sau ngày ban hành. Các bên có quyền yêu cầu trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài vụ việc cấp bản sao phán quyết trọng tài. Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Đây là nguyên tắc xét xử 1 lần – nguyên tắc khiến việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài nhanh gọn, dứt điểm, đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Các bên có thể yêu cầu sửa chữa phán quyết trọng tài, giải thích cụ thể phán quyết trọng tài, ra phán quyết bổ sung đối với những yêu cầu được trình bày trong quá trình tố tụng nhưng không được ghi trong phán quyết.
Thi hành phán quyết trọng tài
Phán quyết trọng tài thương mại sau khi được tuyên sẽ do các bên đương sự tự nguyện thi hành. Nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài, và trên thực tế, phần lớn các phán quyết trọng tài được các bên tự nguyện thi hành. Đây là cách làm khiến quyền lợi của các bên được bảo đảm, đồng thời quan hệ bạn hàng giữa các bên được giữ vững. Tuy nhiên, nếu hết thời hạn thi hành mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.
Việc thi hành phán quyết trọng tài được cơ quan thi hành án thi hành ngay mà không phải thông qua thủ tục công nhận phán quyết trọng tài của toà án. Đây là quy định lần đầu tiên được ghi nhận ở Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, được nhắc lại ở LTTTM 2010 thể hiện sự tiến bộ rõ nét của các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động trọng tài’. Điểm thay đổi này mang lại nhiều ưu việt cho hoạt động trọng tài như: đơn giản hóa thủ tục giải quyết tranh chấp, đặc biệt là thủ tục thi hành phán quyết trọng tài; nâng cao giá trị pháp lý cho phán quyết trọng tài, đặt giá trị phán quyết trọng tài tương đương với giá trị pháp lý của bản án, quyết định của toà án; nâng cao tính khả thi của hoạt động trọng tài.
Tuy nhiên, quy định này không phản ánh đúng bản chất của trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi Chính phủ do các trọng tài viên tự nguyện thành lập. Hơn nữa, quy định như vậy khiến Luật trọng tài Việt Nam khác biệt so với Luật trọng tài nhiều nước, khi Luật trọng tài hầu hết các nước quy định phán quyết trọng tài, dù là trong nước hay nước ngoài đều phải được toà án công nhận rồi mới được thi hành. Việc thi hành phán quyết trọng tài được thực hiện bởi cơ quan thi hành án dân sự cũng khiến LTTTM 2010 khác với Luật Trọng tài Anh, khi Luật này quy định cơ quan có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là Toà án mà không phải là cơ quan thi hành án.
Đối với phán quyết của trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký tại tòa án nơi hội đồng trọng tài đã ra phán quyết. Việc đăng ký phán quyết trọng tài không được hiểu giống như việc công nhận của toà án đối với phán quyết của trọng tài thương mại, mà chỉ mang tính thủ tục trước khi được thi hành bởi cơ quan thi hành án.
– Việc cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài thể hiện rõ nét sự hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động trọng tài, bởi vì trọng tài là phi Chính phủ nên bản thân trọng tài không thể cưỡng chế thi hành phán quyết của chính mình. Nếu trọng tài đã ra phán quyết mà bên phải thi hành không chịu thi hành, bên được thi hành cũng như bản thân trọng tài sẽ không có cách gì buộc thi hành được. Vì thế, cơ quan thi hành án hỗ trợ thi hành phán quyết trọng tài là sự hỗ trợ vô cùng cần thiết và hiệu quả. Sự hỗ trợ này đã nâng tầm giá trị phán quyết trọng tài ngang bằng với giá trị bản án, quyết định của Toà án mặc dù trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp do các trọng tài viên thành lập nên.
Huỷ phán quyết trọng tài
Phán quyết trọng tài sau khi được tuyên sẽ có giá trị chung thẩm, các bên phải tự nguyện thi hành mà không có kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, do những lý do khách quan, chủ quan, phán quyết trọng tài có thể có sai sót, vì thế có thể bị tuyên huỷ bởi Toà án nơi hội đồng trọng tài đã tuyên phán quyết trọng tài”.
Phán quyết trọng tài bị hủy nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(i) Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
(ii) Thành phần hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của LTTTM 2010;
(iii) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ;
(iv) Chứng cứ do các bên cung cấp mà hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;
(v) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam (Điều 68 LTTTM 2010). Các trường hợp này không liên quan đến nội dung phán quyết mà liên quan đến thỏa thuận trọng tài và thủ tục tố tụng trọng tài. Quy định này khiến LTTTM 2010 tương thích với Luật Trọng tài một số nước như Anh, Đức (Điều 68 Luật Trọng tài Anh 1996; Điều 1059 Luật Trọng tài Đức)…
– Toà án xét đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo trình tự, thủ tục được quy định tại Điều 71 LTTTM. Cụ thể, Toà án không xem xét lại nội dung tranh chấp cũng như trình tự, thủ tục tố tụng mà chỉ xem phán quyết trọng tài đã tuyên có thuộc các trường hợp được quy định tại Điều 68 LTTTM 2010 không. Nếu thuộc một trong các trường hợp được quy định, Toà án ra quyết định huỷ phán quyết trọng tài; nếu không thuộc một trong các trường hợp đó, Toà án ra quyết định không huỷ phán quyết trọng tài. Quyết định không huỷ phán quyết trọng tài khiến phán quyết trọng tài có hiệu lực, bên phải thi hành có nghĩa vụ thi hành hoặc bị cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành. Như vậy, việc Toà án hỗ trợ trọng tài trong việc huỷ hay không huỷ phán quyết không biến Toà án trở thành cơ quan cấp trên của trọng tài. Toà án và trọng tài vẫn là những hình thức giải quyết tranh chấp độc lập, cạnh tranh lẫn nhau để thu hút các nhà kinh doanh khi có tranh chấp xảy ra.
Tóm lại: Trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển do những ưu điểm nổi bật như: giải quyết nhanh chóng, dứt điểm, đảm bảo bí mật, giữ được uy tín cũng như mối quan hệ bạn hàng giữa các bên, tôn trọng quyền tự định đoạt của các chủ thể tranh chấp. Ở Việt Nam trong tương lai, trọng tài thương mại cũng sẽ là hình thức giải quyết tranh chấp được nhiều thương nhận biết đến và tin tưởng lựa chọn, do những ưu việt mà hình thức giải quyết tranh chấp này mang lại so với các hình thức giải quyết tranh chấp khác cùng tồn tại song song.
Nguồn: Đại Lý Thuế Gia Lộc