Quy định pháp luật cạnh tranh Việt Nam
Quy định pháp luật cạnh tranh Việt Nam như thế nào? sẽ được chúng tôi tư vấn trong nội dung bài viết sau đây.
Quy định pháp luật cạnh tranh Việt Nam
Quy định pháp luật cạnh tranh Việt Nam như thế nào? sẽ được chúng tôi tư vấn trong nội dung bài viết sau đây.
Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền
Sức mạnh thống lĩnh, sức mạnh độc quyền đem lại cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp khác và đem lại khả năng chi phối các quan hệ với khách hàng. Những lợi thế cạnh tranh có thể là khả năng kiểm soát các yếu tố của thị trường (như nguồn nguyên liệu, giá cả, số lượng sản phẩm đáp ứng cho người tiêu dùng; khả năng tài chính; thói quen tiêu dùng của khách hàng vv…) và các yếu tố tạo ra địa vị không ngang bằng trong cạnh tranh giữa doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường và các đối thủ của nó (bao gồm cả đối thủ tiềm năng).
Doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền có điều kiện tận dụng những ưu thế trên nhằm gây khó khăn cho đối thủ trong quá trình kinh doanh hoặc ngăn cản việc gia nhập thị trường, có cơ hội để bóc lột khách hàng thông qua việc áp đặt những điều kiện giao dịch không công bằng. Chính vì những hậu quả tiềm tàng như vậy, kiểm soát độc quyền hay kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trở thành một trong những nội dung cơ bản của pháp luật cạnh tranh.
Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên Hợp Quốc được thông qua ngày 22/4/1980 và Luật mẫu về cạnh tranh của Tổ chức Thương mại và phát triển Liên Hợp quốc (UNCTAD) có đưa ra khái niệm về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh như sau: “là hành vi hạn chế cạnh tranh mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền sử dụng để duy trì hay tăng cường vị trí của nó trên thị trường bằng cách hạn chế khả năng gia nhập thị trường hoặc hạn chế quá mức cạnh tranh”. Với cách định nghĩa về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nêu trên tuy rằng đã có được sự bao quát toàn bộ về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền, song lại quá trừu tượng và khó xác định trên thực tế.
Do vậy, pháp luật của một số nước không đưa ra khái niệm về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền mà chỉ quy định một cách khái quát các dấu hiệu cấu thành của hành vi bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam cũng không định nghĩa thế nào là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền mà chỉ đưa ra khái niệm về hành vi hạn chế cạnh tranh: “là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền và tập trung kinh tế”. Ngoài ra, để cụ thể hóa, pháp luật đã liệt kê hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh tại Điều 13 Luật Cạnh tranh 2004 và hành vi lạm dụng vị trí độc quyền tại Điều 14. B 3.2. Dấu hiệu nhận diện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền
– Thứ nhất: Dấu hiệu nhận biết về mặt chủ thể. Chủ thể thực hiện hành vi lạm dụng có thể là một doanh nghiệp đơn lẻ hoặc một nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị trường liên quan. Đây cũng là đặc điểm đầu tiên và quan trọng nhất khi xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền. Trên thực tế, việc kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền chỉ đặt ra đối với doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền đã được xác lập, có mục đích trục lợi hoặc để bóp méo cạnh tranh.
Bởi lẽ việc hình thành vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền có thể xuất phát từ những điều kiện tự nhiên của thị trường như yêu cầu về quy mô hiệu quả tối thiểu, sự dị biệt của sản phẩm, sự tồn tại của các rào cản thị trường… dẫn tới doanh nghiệp có được vị trí thống lĩnh một cách hợp pháp, đem lại cho doanh nghiệp khả năng chi phối các quan hệ trên thị trường. Điều này được pháp luật bảo vệ mà không ngăn cấm. Như vậy, để xác định được hành vi lạm dụng, các nhà quản lý cần xác định được hành vi lạm dụng đó phải do doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị trường liên quan thực hiện.
– Thứ hai: Dấu hiệu nhận biết về mặt hành vi. Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường đã hoặc đang thực hiện hành vi mà pháp luật quy định là hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Đặc điểm này giúp phân biệt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các doanh nghiệp chỉ cần có sự thống nhất ý chí mà chưa cần thực hiện hành vi phản cạnh tranh trên thực tế thì đã có thể bị xử lý.
Nhưng đối với hành vi lạm dụng, chủ thể thực hiện hành vi dù là doanh nghiệp đơn lẻ hay nhóm doanh nghiệp, đều không có sự thống nhất ý chí, do đó chỉ có thể căn cứ vào những hành vi đã hoặc đang diễn ra trên thực tế để xem xét xử lý. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền được quy định tại Điều 13 và Điều 14 của Luật Cạnh tranh năm 2004. Đó là những hành vi như lợi dụng, bóc lột khách hàng, ngăn cản, loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Khi áp dụng các quy định của pháp luật về việc xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền của doanh nghiệp cần lưu ý tới việc pháp luật vẫn luôn bảo hộ cho các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền giống như các doanh nghiệp khác. Vì vậy, chỉ bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền khi các doanh nghiệp hội tụ đủ những yếu tố cấu thành nên hành vi vi phạm được quy định trong Luật Cạnh tranh.
Thứ ba: Hậu quả của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh là làm sai lệch, cản trở hoặc giảm cạnh tranh trên thị trường liên quan.
Mức giảm, sai lệch, hạn chế cạnh tranh mà hành vi lạm dụng gây ra được chứng minh bằng tổn thất thực tế mà các doanh nghiệp khác hoặc khách hàng phải gánh chịu. Doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền với mục đích duy trì, củng cố vị trí hiện có hoặc tận hưởng các lợi ích có được từ việc bóc lột khách hàng. Rõ ràng, khi doanh nghiệp có được vị trí thống lĩnh hay vị trí độc quyền, họ sẽ có nhiều cơ hội hơn để tạo ra được một rào cản gia nhập từ phía các đối thủ khác bởi khả năng chi phối đến các khâu trong quá trình sản xuất cho đến thị trường đầu ra.
Vì lí do nắm giữ một thị phần lớn trên thị trường, hoặc thậm chí là một mình bán một loại hàng hóa dịch vụ mà không có đối thủ cạnh tranh với một số lượng khách hàng lớn, các công ty có được vị trí thống lĩnh hay vị trí độc quyền trở thành những doanh nghiệp đi đầu, và họ có được những ưu thế rất lớn trong quá trình kinh doanh. Việc nắm giữ được quyền lực thị trường khiến cho họ có thể duy trì được mức giá trên giá cạnh tranh mà vẫn thu được lợi nhuận”.
Cách xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền theo Luật Cạnh tranh Việt Nam
Theo quy định của Luật Cạnh tranh 2004, việc xác định vị trí thống lĩnh trên thị trường dựa trên hai tiêu chí:
Tiêu chí thứ nhất là tiêu chí thị phần của các doanh nghiệp trên thị trường liên quan được đưa ra dựa trên phương pháp định lượng. Cụ thể, Điều 11 Luật Cạnh tranh 2004 quy định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường là doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan’ hay nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường hợp sau đây: Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan; Ba doanh nghiệp có tông thị phần từ 65% trên thị trường liên quan; Bổn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan.
Tiêu chí thứ hai được các nhà làm luật đưa ra là tiêu chí mang tính chất định tính, theo đó doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường là doanh nghiệp có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Điều 22 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định các căn cứ để xác định khả năng gây hạn chế một cách đáng kể bao gồm:
1. Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
2. Năng lực tài chính của tổ chức kinh tế, cá nhân thành lập doanh nghiệp.
3. Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát hoặc chi phối hoạt động của của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hoặc Điều lệ của doanh nghiệp.
4. Năng lực tài chính của công ty mẹ. 5. Năng lực công nghệ. 6. Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp. 7. Quy mô của mạng lưới phân phối.
Đối với doanh nghiệp có vị trị độc quyền, Điều 12 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan”. Tức là nếu xét tiêu chí thị phần, thì doanh nghiệp độc quyền là doanh nghiệp chiếm 100% thị phần trên thị trường liên quan.
Hiện nay để xác định các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hay vị trị độc quyền, cơ quan thực thi Luật Cạnh tranh Việt Nam vẫn chủ yếu dựa trên thị phần. Tuy nhiên có thể thấy ngoài yếu tố thị phần mà doanh nghiệp nắm giữ, việc xác định liệu một doanh nghiệp có đạt được vị trí thống lĩnh hay không còn được xác định dựa trên những yếu tố khác là rào cản gia nhập thị trường, ví dụ như sức mua của người tiêu dùng, khả năng tiếp cận nguồn vốn, khoa học công nghệ… Việc đẩy mạnh xác định sức mạnh thị trường của doanh nghiệp dựa vào các tiêu chí ngoài thị phần, đóng vai trò rất quan trọng trong thúc đẩy thực thi Luật Cạnh tranh.
Các dạng hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và quy định cấm theo Luật Cạnh tranh Việt Nam
Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh được quy định tại Điều 13 Luật Cạnh tranh 2004 và được hướng dẫn cụ thể từ Điều 23 đến Điều 30 tại Nghị định 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 15 tháng 9 năm 2005. Theo đó, các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bao gồm 06 dạng sau:
– Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh
– Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;
– Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng
– Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh;
– Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo ra sự bất bình đẳng cho khách hàng
– Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới. – Về hành vi lạm dụng vị trí độc quyền, Điều 14 Luật Cạnh tranh 2004 quy định, ngoài sáu (16) dạng hàng vị được áp dụng chung cho lạm dụng vị trí thống lĩnh, còn có thêm hai (02) dạng hành vi chỉ áp dụng riêng đối với lạm dụng vị trí độc quyền bao gồm:
– Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;
– Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng
Do mức độ ảnh hưởng rất lớn tới cạnh tranh trên thị trường nên pháp luật Việt Nam nói chung, Luật Cạnh tranh 2004 nói riêng nghiêm cấm các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền mà không có trường hợp ngoại lệ hay miễn trừ nào khác. Việc cấm lạm dụng vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền là nhằm thực hiện mục đích chung của pháp luật chống hạn chế cạnh tranh – đảm bảo một môi trường tự do cạnh tranh cho tất cả các chủ thể tham gia.
Khái quát về tập trung kinh tế
Tập trung kinh tế được được xem xét như một hành vi hạn chế cạnh tranh quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004. Ngoài ra tại Điều 16 Luật Cạnh tranh 2004 cũng quy định, tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm: “Sáp nhập doanh nghiệp; Hợp nhất doanh nghiệp; Mua lại doanh nghiệp; Liên doanh giữa các doanh nghiệp; Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật”. Từ đó có thể đưa ra các đặc điểm về tập trung kinh tế như sau:
Thứ nhất: Chủ thể tiến hành hoạt động tập trung kinh tế là các doanh nghiệp.
Đây là một đặc điểm có tính chất tương đối bởi pháp luật mỗi nước có những quy định khác nhau về vấn đề này. Ví dụ, pháp luật Liên bang Nga giới hạn việc thực hiện hoạt động sáp nhập, mua lại chỉ có thể là doanh nghiệp, trong khi tại Pháp lại có sự mở rộng khi quy định chủ thể tiến hành tập trung kinh tế bao gồm cả cá nhân và doanh nghiệp. Trên thực tế, có thể nhận thấy, các thương vụ tập trung kinh tế tại Việt Nam trong thời gian vừa qua hầu hết được thực hiện bởi các doanh nghiệp. Mặc dù vậy, trường hợp cá nhân mua bán doanh nghiệp được xem là hoạt động đầu tư của cùng một chủ thể vì vậy pháp luật cạnh tranh Việt Nam không cấm.
Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng, không phải tất cả doanh nghiệp đều trở thành đối tượng của tập trung kinh tế mà phải đáp ứng được những điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Chẳng hạn như, theo quy định của Luật Cạnh tranh 2004 chỉ có thể thực hiện tập trung kinh tế nếu các doanh nghiệp này không thuộc với trường hợp tập trung kinh tế bị cấm và phải thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý nhất định theo quy định của Luật Doanh nghiệp hoặc các văn bản pháp luật chuyên ngành.
Thứ hai: Mục đích khi tiến hành tập trung kinh tế
Khi tìm đến con đường tập trung kinh tế, mỗi doanh nghiệp đều có một động cơ thực hiện nhất định, có thể vì lý do muốn mở rộng thị trường hoạt động, hay giảm thiểu áp lực cạnh tranh hoặc tận dụng kinh nghiệm, công nghệ sản xuất của nhau nhằm hạn chế rủi ro trong quá trình đầu tư. Song dù với động cơ nào thì mục đích cuối cùng mà các chủ thể tiến hành tập trung kinh tế muốn đạt được đó là giành được quyền kiểm soát doanh nghiệp mục tiêu và chi phối thị trường ở mức độ nhất định, chứ không đơn thuần chỉ là sở hữu một phần vốn góp hay nắm giữ cổ phần như hoạt động đầu tư thông thường.
Thứ ba: Hậu quả của hoạt động tập trung kinh tế.
Trên thực tế, hậu quả của một thương vụ tập trung kinh tế thường diễn ra theo hai xu hướng, hoặc làm chấm dứt hoạt động kinh doanh của 1 bên trong giao dịch (thường là doanh nghiệp mục tiêu) hoặc có thể hình hành nên 1 doanh nghiệp mới có quy mô lớn hơn với những sự thay đổi về cơ cấu tổ chức, ban điều hành, lao động, thương hiệu
Tổ chức Thương mại và phát triển Liên Hợp quốc, Luật mẫu về cạnh tranh, trên thị trường, vv. Điều này đồng nghĩa với việc tập trung kinh tế có thể làm giảm số lượng doanh nghiệp, tức là giảm số lượng đối thủ cạnh tranh trên thị trường, thay vào đó tạo lập nên các doanh nghiệp có sức mạnh thị trường, từ đó làm thay đổi tương quan vị thế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp đã có sức mạnh thị trường, họ có thể lợi dụng sức mạnh đó để gây ra các hành vi phản cạnh tranh. Như vậy hậu quả của hành vi tập trung kinh tế với tư cách là hành vi hạn chế cạnh tranh thường là một hậu quả mang tính chất suy đoán.
Các hình thức tập trung kinh tế theo quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam
Theo quy định tại Điều 16, Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004, có thế thấy, pháp luật Việt Nam phân chia hoạt động tập trung kinh tế thành năm hình thức riêng biệt và đưa ra định nghĩa cụ thể về từng hình thức, cụ thể như sau:
Sáp nhập doanh nghiệp VN
Khoản 1 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004 quy định “Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.” Định nghĩa này tương tự với định nghĩa về sáp nhập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 (tại khoản 1 Điều 195). Với quy định trên, có thể thấy, hệ quả của hành vi sáp nhập đó là việc doanh nghiệp bị sáp nhập không còn tồn tại và bị xóa tên trong số đăng ký kinh doanh, còn doanh nghiệp nhận sáp nhập được hưởng mọi tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp cũng như chịu trách nhiệm với các nghĩa vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập đối với các bên thứ ba liên quan.
Hợp nhất doanh nghiệp
Theo Khoản 2 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004 thì “Hợp nhất doanh nghiệp là việc hại hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất”. Tương tự như định nghĩa về sáp nhập, hành vi hợp nhất theo quy định của Luật Cạnh tranh có sự phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp 2015 (tại Điều 194). Cơ sở để phân biệt hành vi “sáp nhập” và “hợp nhất được thể hiện thông qua hậu quả pháp lý của các hành vi. Việc sáp nhập doanh nghiệp sẽ không tạo ra một chủ thể pháp lý mới trên thị trường và chỉ làm chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp bị sáp nhập, mọi tài sản, quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý sẽ được chuyển giao cho bên doanh nghiệp sáp nhập. Trong khi đó, hợp nhất doanh nghiệp tuy làm chấm dứt đồng thời tất cả các doanh nghiệp bị hợp nhất nhưng lại tạo lập nên một doanh nghiệp hoàn toàn mới trên thị trường.
Mua lại doanh nghiệp
– Hình thức thứ ba của hoạt động tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam là “mua lại doanh nghiệp”, cụ thể, đây là “việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại (khoản 3, Điều 17 Luật Cạnh tranh năm 2004). Mua lại doanh nghiệp được chia làm hai trường hợp là mua lại toàn bộ và mua lại một phần doanh nghiệp.
Mua lại toàn bộ là trường hợp mà bên mua sẽ trở thành chủ sở hữu mới đối với toàn bộ doanh nghiệp bị mua lại, đồng thời thụ hưởng toàn bộ quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị mua lại. Trường hợp này khá giống với hành vi sáp nhập doanh nghiệp. Bởi vậy, để phân biệt hai hành vi này cần phải xác định xem sau khi quá trình hoàn tất, doanh nghiệp bị mua lại có chấm dứt tồn tại hay không. Nếu doanh nghiệp bị mua lại chấm dứt tồn tại thì về bản chất đây chính là hình thức sáp nhập. Còn nếu tiếp tục hoạt động như một chủ thể độc lập thì đây được coi là mua lại doanh nghiệp.
Mua lại một phần doanh nghiệp được thực hiện dưới hình thức mua tài sản, mua cổ phần hoặc phần vốn góp của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại. Điều này sẽ giúp ta phân biệt hình thức này với việc góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp. Nếu việc góp vốn, mua cổ phần với mục đích đơn thuần là để trở thành chủ sở hữu chung của doanh nghiệp mà không đủ để giành kiểm soát chi phối doanh nghiệp thì hoạt động này không được coi là việc mua lại doanh nghiệp và không thuộc sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh.
Liên doanh giữa các doanh nghiệp
Liên doanh giữa các doanh nghiệp là “việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới” (khoản 4 Điều 17 Luật Cạnh tranh năm 2004). Như vậy có hai đặc điểm nổi bật để nói về hoạt động liên doanh; thứ nhất đó là sự liên kết giữa nhiều doanh nghiệp thông qua việc phối hợp cùng nhau góp vốn đầu tư sản xuất kinh doanh; thứ hai đó là việc góp vốn để thành lập nên một doanh nghiệp chung (doanh nghiệp liên doanh) nhằm thực hiện các chức năng như một chủ thể kinh tế độc lập.
Các hình thức tập trung kinh tế khác
Khoản 5 Điều 17 về “Các hình thức tập trung kinh tế khác của Luật Cạnh tranh năm 2004 có thể xem như là một quy định mang tính chất dự liệu, dự phòng của các nhà làm luật nhằm đón đầu những hình thức tập trung kinh tế mới có thể xuất hiện trong các văn bản pháp luật chuyên ngành hoặc trong thực tiễn kinh doanh, từ đó nâng cao khả năng kiểm soát một cách toàn diện cũng như đảm bảo sự ổn định của hệ thống pháp luật trong tương lai.
Kiểm soát tập trung kinh tế theo quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam
T Không phải mọi hoạt động tập trung kinh tế đều gây ra hạn chế cạnh tranh mà trong nhiều trường hợp, tập trung kinh tế đem lại nhiều lợi ích tích cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy nền kinh tế. Vì vậy Nhà nước cần phải tìm ra cơ chế kiểm soát tập trung kinh tế. Theo đó, Luật Cạnh tranh 2004 đưa ra cơ chế kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế dựa vào tiêu chí duy nhất, đó là thị phần kết hợp của doanh nghiệp trên thị trường liên quan, cụ thể như sau:
Các trường hợp tập trung kinh tế được tự do thực hiện
Theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật Cạnh tranh 2004 thì các trường hợp được tự do tiến hành tập trung kinh tế bao gồm:
– Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thấp hơn 30% thị trường liên quan;
– Sau khi tập trung kinh tế, doanh nghiệp vẫn thuộc loại nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật.
Ở trường hợp thứ nhất, sau khi thực hiện tập trung kinh tế, thị phần kết hợp của các doanh nghiệp chiếm 30% đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đó có tiềm lực chưa đủ mạnh để kiểm soát thị trường. Vì vậy, pháp luật quy định không cần phải nộp đơn thông báo khi tiến hành tập trung kinh tế là hoàn toàn hợp lý.
Ở trường hợp thứ hai, sau khi sáp nhập, doanh nghiệp đó vẫn thuộc quy mô nhỏ và vừa. Cách xác định một doanh nghiệp có quy mô nhỏ có thể được căn cứ theo tổng tài sản hoặc số lao động bình quân năm, tùy vào lĩnh vực khác nhau theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Với quy mô kinh doanh này thì Luật Cạnh tranh quy định được tự do thực hiện tập trung kinh tế. Đây cũng là quy định nhằm khuyến khích các doanh nghiệp có quy mô loại này mở rộng sản xuất, gia tăng sức mạnh thị trường.
Các trường hợp tập trung kinh tế phải thông báo
Khoản 1 Điều 20 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định: “Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế”.
Ở Việt Nam, việc kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế được thực hiện theo chế độ tiền kiểm. Mức thị phần trên 30% sẽ được coi là có vị trí thống lĩnh và cần phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi thực hiện hành vi tập trung kinh tế. Các thương vụ tập trung kinh tế rơi vào trường hợp này thì thủ tục thông báo tập trung kinh tế sẽ được thực hiện theo quy định tại các Điều 21, Điều 22 và Điều 23 Luật Cạnh tranh hiện hành.
Các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm và quy định cho hưởng miễn trừ
– Căn cứ vào tỉ lệ thị phần sau khi thực hiện tập trung kinh tế, Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định “Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% ở thị trường liên quan”.
Nhà nước không cấm các doanh nghiệp tăng trưởng để có vị trí thống lĩnh thị trường nhưng Nhà nước sẽ kiểm soát việc hình thành vị trí đó diễn ra như thế nào. Mục đích của việc cấm thực hiện tập trung kinh tế trong một số trường hợp là nhằm ngăn chặn việc hình thành một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường và lạm dụng vị trí này gây hậu quả lớn đối với nền kinh tế. Bản chất của hạn chế cạnh tranh thể hiện ở ngay sự thay đổi cơ bản, đột ngột trong tương quan cạnh tranh và cấu trúc cạnh tranh trên thị trường. Điều đó cũng cho thấy mức độ làm giảm, làm cản trở sai lệch cạnh tranh một cách đáng kể.
Tuy nhiên cần phải khẳng định không phải mọi trường hợp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia chiếm trên 50% trên thị trường liên quan đều bị cấm, Điều 19 Luật Cạnh tranh năm 2004 đã quy định các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm có thể được hưởng miễn trừ trong một trong hai trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất, một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản. Đối với trường hợp này, Bộ trưởng Bộ Công thương sẽ xem xét ra quyết định hưởng miễn trừ bằng văn bản.
Trường hợp thứ hai là tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ. Trường hợp này Thủ tướng Chính phủ xem xét ra quyết định bằng văn bản cho hưởng miễn trừ.
Nguồn: Đại Lý Thuế Gia Lộc