Hợp đồng hợp tác kinh doanh là gì? Đặc điểm hợp đồng hợp tác kinh doanh?

Trong nội dung bài viết sau đây, chúng tôi sẽ tư vấn về: Hợp đồng hợp tác kinh doanh là gì? Đặc điểm hợp đồng hợp tác kinh doanh?

Trong nội dung bài viết sau đây, chúng tôi sẽ tư vấn về: Hợp đồng hợp tác kinh doanh là gì? Đặc điểm hợp đồng hợp tác kinh doanh?

Hợp đồng hợp tác kinh doanh là gì? Đặc điểm hợp đồng hợp tác kinh doanh?

Trong nội dung bài viết sau đây, chúng tôi sẽ tư vấn về: Hợp đồng hợp tác kinh doanh là gì? Đặc điểm hợp đồng hợp tác kinh doanh?

Mục lục

    Khái niệm, đặc điểm hợp đồng hợp tác kinh doanh 

    Hợp đồng hợp tác kinh doanh được quy định chủ yếu trong các văn bản pháp luật về đầu tư, ngoài ra, được quy định trong Bộ luật Dân sự với tư cách là luật chung về hợp đồng. Hợp đồng hợp tác kinh doanh là một trong ba hình thức đầu tư được ghi nhận ngay từ Điều lệ về đầu tư nước ngoài ở Việt Nam 1977, đến các Luật Đầu tư nước ngoài 1987, 1996 và các Luật sửa đổi bổ sung, cũng như Luật Đầu tư 2005 và 2014. Tuy nhiên, trước khi Luật Đầu tư 2005 được ban hành, hợp đồng hợp tác kinh doanh là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư trong đó phải có ít nhất 1 bên Việt Nam và 1 bên nước ngoài. Chỉ đến khi Luật Đầu tư 2005 được ban hành, sau đó là Luật Đầu tư 2014, hợp đồng hợp tác kinh doanh mới được ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài nhằm hợp tác cùng kinh doanh, 

    Theo khoản 2 Điều 3 Luật Đầu tư 2014: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC) là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập tổ chức kinh tế. Khái niệm này đã ghi nhận bản chất của hợp đồng hợp tác kinh doanh là “hợp đồng”, là hình thức đầu tư theo hợp đồng và không thành lập tổ chức kinh tế”. Khái niệm hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng tương đồng với khái niệm hợp đồng hợp tác được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự 2015 (Điều 504), vì hợp đồng hợp tác được định nghĩa “là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm”. 

    Đặc điểm của hợp đồng BCC 

    Thứ nhất: Chủ thể của hợp đồng hợp tác kinh doanh là các nhà đầu tư 

    Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh tế không có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ động. Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.

    Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông (Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014). Các nhà đầu tư có thể hợp tác song phương hoặc đa phương khi ký kết và thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Như vậy, hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể được ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các chủ thể này ở vào vị trí bình đẳng với nhau, cùng hướng tới lợi ích chung khi tham gia vào hợp đồng hợp tác kinh doanh. 

    Về nguyên tắc, bất cứ nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài nào muốn ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, nếu không rơi vào trường hợp Luật cấm, đều trở thành chủ thể của hợp đồng. Tuy nhiên, trong những trường hợp Luật chuyên ngành có quy định riêng về chủ thể hợp đồng hợp tác kinh doanh, thì chủ thể hợp đồng phải tuân thủ các quy định riêng đó.

    Ví dụ, trong lĩnh vực dầu khí, khoản 1 Điều 2 Nghị định 115/2009/NĐ-CP ngày 24/12/2009 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 48/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Dầu khí và quy chế đấu thầu dự án tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí ban hành kèm theo Nghị định 34/2001/NĐ-CP ngày 06/7/2001 của Chính phủ: hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực dầu khí được ký kết giữa các nhà đầu tư, bao gồm doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài; trong đó bắt buộc một bên là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.

    Hay trong lĩnh vực viễn thông, Điều 4 Nghị định 25/2011/NĐ-CP ngày 6/4/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông, nhà đầu tư nước ngoài khi ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh để cung cấp dịch vụ viễn thông không có hạ tầng mạng phải ký kết với doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam; khi ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh để cung cấp dịch vụ viễn thông có hạ tầng mạng phải ký kết với doanh nghiệp viễn thông đã được cấp giấy phép thiết lập mạng viễn thông tại Việt Nam (khoản 1, 2). Như vậy, hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực viễn thông phải có ít nhất một bên chủ thể là doanh nghiệp Việt Nam… 

    Thứ hai: Đối tượng của hợp đồng hợp tác kinh doanh là sự hợp tác cùng kinh doanh giữa các nhà đầu tư mà không thành lập tổ chức kinh tế 

    Tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, các bên hợp doanh cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng chia lãi, cùng chịu lỗ phát sinh từ hoạt động kinh doanh. Việc hợp tác giữa các bên hợp doanh dựa trên sự liên kết giữa các bên hợp doanh tương tự như sự hợp tác giữa các thành viên trong công ty. Nhưng kết quả của sự hợp tác theo hợp đồng hợp tác kinh doanh không giống như liên kết trong công ty, vì không tạo ra một chủ thể kinh doanh mới. Trong quá trình thực hiện, các bên hợp doanh nhân danh chính mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.

    Điều đó có nghĩa là, nếu hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa bên Việt Nam và bên nước ngoài, bên Việt Nam và bên nước ngoài đó vẫn sử dụng tư cách pháp lý độc lập của mình để thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Việc không tạo ra chủ thể kinh doanh mới từ sự hợp tác của các bên khiến việc hợp tác giữa các bên không chặt chẽ như việc thành lập tổ chức kinh tế, thích hợp với các chủ thể mới gia nhập thị trường, cần thăm dò, xâm nhập thị trường và tìm hiểu đối tác trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, việc không thành lập tổ chức kinh tế mới cũng khiến các bên gặp không ít khó khăn khi triển khai hợp đồng, nhất là hợp đồng giữa bên Việt Nam với bên nước ngoài hoặc bên nước ngoài với bên nước ngoài, vì nhiều khi tổ chức nước ngoài không đủ tư cách pháp lý để thiết lập các giao dịch tại Việt Nam. 

    Theo khoản 3 Điều 28 Luật Đầu tư 2014, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng. Ban điều phối do các bên hợp doanh cử ra; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do các bên thỏa thuận. Tuy nhiên, bạn điều phối không phải là hội đồng quản trị của các bên, không có chức năng đại diện cho các bên trong các quan hệ giao dịch. Ban điều phối chỉ có quyền giám sát việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng mà thôi.

    Thứ ba: Nội dung của hợp đồng hợp tác kinh doanh gồm các thoả thuận về nội dung hợp tác giữa các bên 

    Theo Điều 29 Luật Đầu tư 2014, hợp đồng hợp tác kinh doanh gồm những nội dung chủ yếu sau đây: 

    – Tên, địa chỉ, người đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia hợp đồng, địa chỉ giao dịch hoặc địa chỉ nơi thực hiện dự án 

    – Mục tiêu và phạm vi hoạt động đầu tư kinh doanh 

    – Đóng góp của các bên tham gia hợp đồng và phân chia kết quả đầu tư kinh doanh giữa các bên 

    – Tiến độ và thời hạn thực hiện hợp đồng

    – Quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng

    – Sửa đổi, chuyển nhượng, chấm dứt hợp đồng 

    – Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp. 

    Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên tham gia hợp đồng được thỏa thuận sử dụng tài sản hình thành từ việc hợp tác kinh doanh để thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Các bên tham gia hợp đồng có quyền thỏa thuận những nội dụng khác không trái với quy định của pháp luật và đưa vào hợp đồng hợp tác kinh doanh. 

    Quy định về nội dung của hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật Đầu tư 2014 tương tự như quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về nội dung hợp đồng hợp tác. Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ bổ sung thêm hai nội dung: (i) Đóng góp bằng sức lao động, nếu có; (ii) Điều kiện tham gia và rút khỏi hợp đồng hợp tác của thành viên, nếu có (Điều 505). Tuy nhiên, Luật Đầu tư 2014 cũng đã có dự liệu khi quy định về các nội dung khác các bên có quyền thoả thuận và đưa vào hợp đồng, miễn là không trái quy định của pháp luật. 

    Thứ tư: Hợp đồng hợp tác kinh doanh phải được xác lập dưới hình thức văn bản 

    Luật Đầu tư 2014 và Nghị định 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư không quy định về hình thức của hợp đồng hợp tác kinh doanh, nhưng hình thức của hợp đồng được Bộ luật Dân sự 2015 quy định (khoản 2 Điều 504). Hình thức văn bản là hoàn toàn thích hợp với hợp đồng hợp tác kinh doanh, vì các chủ thể ràng buộc với nhau về quyền và nghĩa vụ chỉ theo hợp đồng trong một thời gian nhất định (khác doanh nghiệp còn có Điều lệ và các giấy tờ khác trong hồ sơ). Do vậy, nếu xác lập dưới hình thức lời nói hoặc hành vi, hợp đồng đó sẽ không bảo đảm được tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các bên; dễ xảy ra tranh chấp và khó chứng minh tại cơ quan tố tụng khi quyền lợi của một hoặc cả hai bên bị xâm phạm. 

    Thứ năm: Hợp đồng hợp tác kinh doanh sau khi được ký kết phải tuân theo thủ tục nhất định do Luật định và Đối với các hợp đồng thương mại thông thường (như hợp đồng đại lý thương mại hay hợp đồng đại diện cho thương nhân đã phân tích trên), sau khi được ký kết, hợp đồng sẽ phát sinh hiệu lực, trừ trường hợp pháp luật quy định khác. Tuy nhiên, đối với hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài hoặc giữa các nhà đầu tư nước ngoài, sau khi được ký kết, các nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014 (khoản 2 Điều 28). Cụ thể: HTTG 

    (i) Đối với dự án đầu tư thuộc diện quyết định chủ trương đầu tư theo quy định tại các Điều 30, 31 và 32 Luật Đầu tư năm 2014, cơ quan đăng ký đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho nhà đầu tư trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản quyết định chủ trương đầu tư.

    (ii) Đối với dự án đầu tư không thuộc diện quyết định chủ trương đầu tư theo quy định tại các Điều 30, 31 và 32 Luật Đầu tư năm 2014, nhà đầu tư thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định: Nhà đầu tư nộp hồ sơ theo quy định cho cơ quan đăng ký đầu tư; trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ, cơ quan đăng ký đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư và nêu rõ lý do (Điều 37 Luật Đầu tư 2014). 

    Có quy định này vì hợp đồng hợp tác kinh doanh không chỉ là một hợp đồng trong thương mại (một dạng của hợp đồng hợp tác theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015), mà còn là một hình thức đầu tư trực tiếp theo Luật Đầu tư (được ghi nhận từ văn bản pháp luật đầu tiên về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 1977). Vì là hình thức đầu tư, nên hợp đồng hợp tác kinh doanh không chỉ ghi nhận sự thoả thuận của các bên, mà còn chịu sự quản lý của Nhà nước về đầu tư.

    Việc quản lý của Nhà nước được thể hiện thông qua thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho dự án đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh; theo Luật Đầu tư 2005 áp dụng đối với các dự án đầu tư theo quy định (từ Điều 45 đến 50); còn theo Luật Đầu tư 2014, chỉ áp dụng đối với dự án đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài hoặc giữa các nhà đầu tư nước ngoài. Hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự (khoản 1 Điều 28 Luật Đầu tư năm 2014). 

    Trên thực tế, có thể có sự nhầm lẫn giữa hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng liên danh và hợp đồng liên doanh, vì những hợp đồng này đều mang đặc trưng là sự hợp tác giữa các bên nhằm mục tiêu kinh doanh chung. Tuy nhiên, mỗi loại hợp đồng lại có những đặc trưng riêng, phù hợp với từng loại hình kinh doanh, mục đích kinh doanh cụ thể và chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật khác nhau.

    Cụ thể: theo pháp luật hiện hành, không có quy định về hợp đồng liên danh. Luật Đấu thầu 2013 chỉ quy định về hoạt động liên danh của các nhà thầu khi tham gia hoạt động đấu thầu. Luật Đầu tư 2014 không quy định về hình thức đầu tư thành lập doanh nghiệp liên doanh riêng như Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987 và 1996, nhưng vẫn quy định về hình thức đầu tư trực tiếp thông qua thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, theo đó, hợp đồng liên doanh có thể được hiểu là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư để thành lập pháp nhân tiến hành hoạt động chung cho các bên.

     Còn hợp đồng hợp tác kinh doanh là hợp đồng được ký kết giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập tổ chức kinh tế mới. Ưu điểm khi ký hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tự linh hoạt, dự án triển khai nhanh, phù hợp với dự án có thời hạn đầu tư ngắn, sớm thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh do không mất thời gian thực hiện thủ tục thành lập pháp nhân và đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất mới. Tuy nhiên, việc hợp tác thông qua ký hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng gặp khó khăn trong việc kiểm soát hoạt động thực tế, đặc biệt trong việc quản lý chi phí và tiến hành hoạt động giao dịch với bên thứ ba do mỗi bên vẫn nhân danh mình giao kết hợp đồng.

    Những điều khoản cần thoả thuận trong hợp đồng hợp tác kinh doanh và một số lưu ý 

    Theo quy định của Luật Đầu tư 2014 và theo thông lệ, các điều khoản cần thoả thuận trong hợp đồng hợp tác kinh doanh thường bao gồm: 

    Một là: Tên, địa chỉ, người đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia hợp đồng, địa chỉ giao dịch hoặc địa chỉ nơi thực hiện dự án 

    Chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc nước ngoài, vì thế, tên ở đây có thể là tên cá nhân hoặc tổ chức; nếu là tổ chức phải có tên người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền của tổ chức đứng ra ký kết hợp đồng. 

    Địa chỉ giao dịch cũng là địa chỉ của cá nhân hoặc tổ chức, phải cụ thể để có thể xác định, có địa chỉ nơi thực hiện dự án để xác định rõ dự án đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh thực hiện ở đâu. Nếu hợp đồng được ký bởi người đại diện không đúng thẩm quyền, hợp đồng sẽ bị vô hiệu nếu người đại diện đúng thẩm quyền không chấp nhận hợp đồng đã ký. . 

    Hai là: Điều khoản định nghĩa

    Điều khoản định nghĩa hay điều khoản giải thích từ ngữ được hiểu là điều khoản do các bên đưa ra để giải thích những từ ngữ được sử dụng trong hợp đồng, nhằm đảm bảo cách hiểu thống nhất cho các bên khi thực hiện hợp đồng cũng như khi giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng (nếu có). Do đó, đối với những hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực chuyên ngành, hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh có giá trị lớn, thường các bên sẽ soạn thảo điều khoản này để đảm bảo cách hiểu thống nhất về các nội dung trong hợp đồng giữa các bên. 

    Ba là: Điều khoản về đối tượng của hợp đồng 

    Đối tượng của hợp đồng luôn là điều khoản quan trọng nhất của bất cứ hợp đồng nào, cần được soạn thảo cụ thể, chi tiết để các bên đều hiểu đúng và thực hiện đúng. Nếu khi soạn thảo, chỉ cần 1 điều khoản là điều khoản đối tượng của hợp đồng bị vô hiệu, các điều khoản khác dù không trái pháp luật vẫn không có giá trị vì hợp đồng bị vô hiệu. Khi thực hiện hợp đồng, chỉ cần thực hiện sai đối tượng hợp đồng thì các điều khoản khác dù có thực hiện đúng cũng không có giá trị, vì mục đích hợp đồng sẽ không đạt được. 

    Đối tượng của hợp đồng hợp tác kinh doanh là sự hợp tác cùng bỏ vốn, cùng kinh doanh nhưng không thành lập tổ chức kinh tế. Ở điều khoản này, các bên phải thoả thuận cụ thể về những nội dung của việc hợp tác kinh doanh của các bên, bao gồm: công việc hợp tác, lĩnh vực hợp tác, thời gian hợp tác, địa điểm hợp tác, cách thức tiến hành hợp tác… 

    Bốn là: Điều khoản góp vốn của các bên 

    Việc góp vốn để thực hiện hợp đồng là việc làm cần thiết, vì để kinh doanh không thể thiếu vốn. Đối với hợp đồng hợp tác kinh doanh có số vốn ít, thường điều khoản góp vốn của các bên chỉ bao gồm: thoả thuận về lượng vốn góp, tài sản góp, cách thức góp và thời hạn góp. Đối với hợp đồng hợp tác kinh doanh có số vốn lớn, thời gian triển khai dài, việc góp vốn được tiến hành làm nhiều đợt, cần thoả thuận thêm về tiến độ góp vốn, số vốn phát sinh vì biến động giá (nếu có), trách nhiệm của các bên nếu không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết góp… 

    Năm là: Điều khoản về phân chia lợi nhuận 

    Vì việc hợp tác kinh doanh của các bên không thành lập nên tổ chức kinh tế mới, do đó, thoả thuận về phân chia lợi nhuận cũng cần được ghi nhận ngay trong hợp đồng. Thông thường, việc phân chia lợi nhuận sẽ dựa trên tỷ lệ vốn góp của các bên. Trong hợp đồng, các bên sẽ thoả thuận về: dự kiến thời điểm bắt đầu phân chia lợi nhuận; dự kiến tỷ lệ lợi nhuận được chia cho các bên và phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư; dự kiến về trường hợp một hoặc cả hai bên mất quyền được hưởng lợi nhuận hoặc bị trừ bớt phần lợi nhuận được hưởng do vi phạm (nếu có) trong hợp đồng hợp tác kinh doanh… 

    Sáu là: Điều khoản về tiến độ thực hiện hợp đồng và thời hạn hợp đồng 

    Việc thoả thuận về tiến độ thực hiện hợp đồng là cần thiết, vì hợp đồng thông thường chỉ được thực hiện trong một thời hạn nhất định. Thời hạn thực hiện hợp đồng do các bên hợp doanh quyết định và được cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư ghi rõ trong Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (trường hợp làm thủ tục đầu tư). Theo Luật Đầu tư 2014, thời hạn tối đa để thực hiện một dự án đầu tư là 50 năm, trường hợp đặc biệt có thể gia hạn nhưng không quá 70 năm. Các bên thoả thuận về thời hạn thực hiện hợp đồng trong thời hạn theo quy định của Luật Đầu tư. 

    Điều khoản về tiến độ thực hiện hợp đồng thường được các bên thoả thuận theo từng giai đoạn với những nội dung công việc cụ thể mà mỗi bên phải hoàn thành trong giai đoạn đó. Việc quy định về tiến độ thực hiện hợp đồng nhằm tránh trường hợp một bên chậm thực hiện gây ảnh hưởng đến quá trình thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, việc đặt ra tiến độ đôi khi cũng khiến cho các bên gặp khó khăn, vì việc thực hiện hợp đồng có thể tốt hơn hoặc không tốt như các bên mong muốn. Do vậy, cần thoả thuận cả việc các bên có quyền thay đổi thời hạn cũng như tiến độ thực hiện hợp đồng cho phù hợp với tình hình thực hiện hợp đồng cụ thể của các bên. 

    Bảy là: Điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên 

    Điều khoản về quyền, nghĩa vụ của các bên hợp doanh không được ghi nhận trong Luật Đầu tư 2014 và Nghị định 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, mà được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, các bên hợp doanh hay các thành viên hợp tác có quyền và nghĩa vụ sau: (i) Được hưởng hoa lợi, lợi tức thu được từ hoạt động hợp tác; (ii) Tham gia quyết định các vấn đề liên quan đến thực hiện hợp đồng hợp tác, giám sát hoạt động hợp tác; (iii) Bồi thường thiệt hại cho các thành viên hợp tác khác do lỗi của mình gây ra; (iv) Thực hiện quyền, nghĩa vụ khác theo hợp đồng (Điều 507). Ngoài những quyền và nghĩa vụ trên, các bên hợp doanh thường thoả thuận rõ về các nghĩa vụ độc lập của mình, đặc biệt là nghĩa vụ tài chính phát sinh từ hợp đồng hợp tác kinh doanh đối với mỗi bên. 

    Tám là: Điều khoản về thể thức sửa đổi, chuyển nhượng, chấm dứt hợp đồn

    Về sửa đổi hợp đồng: theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, các bên được tự do trong việc sửa đổi hợp đồng, nhất là khi hoàn cảnh thực hiện hợp đồng đã thay đổi cơ bản. Hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây:

    (i) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng;

    (ii) Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh;

    (iii) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;

    (iv) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên;

    (v) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích. Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý.

    Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án:

    (i) Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định;

    (ii) Sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản.

    Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi. Trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết vụ việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 420 Bộ luật Dân sự 2015). Do đó, trong hợp đồng hợp tác kinh doanh, các bên có thể thoả thuận về những trường hợp sẽ tiến hành sửa đổi hợp đồng và cách thức sửa đổi hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi tác động đến quyền và lợi ích hợp pháp của một bên. 

    Về chuyển nhượng hợp đồng: các bên có thể thoả thuận quyền chuyển nhượng hợp đồng cho bên thứ ba trong quá trình thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho bên hoặc các bên còn lại, các bên có thể thoả thuận về điều kiện để một bên có thể chuyển nhượng hợp đồng cho bên thứ ba; nghĩa vụ thông báo và thời hạn thông báo của bên chuyển nhượng cho bên hoặc các bên còn lại; quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng hoặc quyền phản đối việc chuyển nhượng của bên hoặc các bên hợp doanh còn lại trong hợp đồng hợp tác kinh doanh. 

    Theo Luật Đầu tư 2014, các nhà đầu tư có quyền chuyển nhượng dự án đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh và các hình thức đầu tư khác. Cụ thể: Nhà đầu tư có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án đầu tư cho nhà đầu tư khác khi đáp ứng các điều kiện sau đây:

    (i) Không thuộc một trong các trường hợp bị chấm dứt hoạt động theo quy định của Luật Đầu tư;

    (ii) Đáp ứng điều kiện đầu tư áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài nhận chuyển nhượng dự án thuộc ngành, nghề đầu tư có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài;

    (iii) Tuân thủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về đất đai, pháp luật về kinh doanh bất động sản trong trường hợp chuyển nhượng dự án gắn với chuyển nhượng quyền sử dụng đất;

    (iv) Điều kiện quy định tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc theo quy định khác của pháp luật có liên quan (nếu có). Trường hợp chuyển nhượng dự án thuộc diện cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, nhà đầu tư nộp hồ sơ theo quy định kèm theo hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư để điều chỉnh nhà đầu tư thực hiện dự án (Điều 45). 

    Về chấm dứt hợp đồng: Việc chấm dứt hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng không được quy định trong Luật Đầu tư 2014 và Nghị định 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, mà được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, hợp đồng hợp tác chấm dứt trong trường hợp sau đây:

    (i) Theo thoả thuận của các thành viên hợp tác;

    (ii) Hết thời hạn ghi trong hợp đồng hợp tác;

    (iii) Mục đích hợp tác đã đạt được;

    (iv) Theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

    (v) Trường hợp khác theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan.

    Khi chấm dứt hợp đồng hợp tác, các khoản nợ phát sinh từ hợp đồng phải được thanh toán; nếu tài sản chung không đủ để trả nợ thì phải lấy tài sản riêng của các thành viên hợp tác để thanh toán. Trường hợp các khoản nợ đã được thanh toán xong mà tài sản chung vẫn còn thì được chia cho các thành viên hợp tác theo tỷ lệ tương ứng với phần đóng góp của mỗi người, trừ trường hợp có thoả thuận khác (Điều 512). Ngoài ra, các bên có quyền thoả thuận cụ thể những trường hợp một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các bên cũng cần thoả thuận về trách nhiệm thông báo, thời hạn thực hiện trách nhiệm thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng của bên đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với bên hoặc các bên còn lại; đồng thời quy định nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của bên có lỗi trong việc hợp đồng bị đơn phương chấm dứt. 

    Chín là: Điều khoản về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng 

    Theo Điều 292 Luật Thương mại 2005, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng hay các chế tài trong thương mại bao gồm: (i) Buộc thực hiện đúng hợp đồng; (ii) Phạt vi phạm; (iii) Buộc bồi thường thiệt hại; (iv) Tạm ngừng thực hiện hợp đồng; (v) Đình chỉ thực hiện hợp đồng; (vi) Huỷ bỏ hợp đồng; (vii) Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.

    Khi một hoặc các bên vi phạm hợp đồng hợp tác kinh doanh, bên bị vi phạm sẽ có quyền áp dụng một hoặc các chế tài trong thương mại đối với bên vi phạm. Tuy nhiên, khi áp dụng một hoặc các chế tài được quy định trên, cần lưu ý: B – Đối với chế tài phạt vi phạm: chỉ áp dụng nếu các bên có thoả thuận trong hợp đồng hợp tác kinh doanh. Theo quy định tại Điều 301 Luật Thương mại 2005, mức phạt đối với một hoặc nhiều hành vi vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. 

    – Đối với chế tài bồi thường thiệt hại: chỉ áp dụng nếu hành vi vi phạm của bên vi phạm gây ra thiệt hại thực tế, trực tiếp đối với bên bị vi phạm 

    – Đối với chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, huỷ bỏ hợp đồng: chỉ được áp dụng nếu thuộc một trong các trường hợp sau: (i) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng, đình chỉ, huỷ bỏ hợp đồng; (ii) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. 

    Mười là: Điều khoản về giải quyết tranh chấp 

    Theo Điều 14 Luật Đầu tư 2014, tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam được giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải. Trường hợp không thương lượng, hòa giải được thì tranh chấp được giải quyết tại trọng tài hoặc Tòa án theo quy định. Nếu tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa các bên hợp doanh giải quyết thông qua thương lượng hoặc hoà giải, đó là những hình thức giải quyết tốt nhất, vì tranh chấp sẽ được giải quyết nhanh chóng, ít tốn kém, đảm bảo bí mật, giữ uy tín và quan hệ bạn hàng của các bên.

    Nếu không thể thương lượng, hoà giải, các bên sẽ chọn một trong hai hình thức: trọng tài thương mại hoặc Toà án. Giải quyết tại trọng tài có ưu điểm là nhanh chóng, bảo đảm bí mật, giữ uy tín và đảm bảo tối đa quyền tự định đoạt của đương sự; tuy nhiên, các bên cần thoả thuận lựa chọn trọng tài trước hoặc sau khi phát sinh tranh chấp. Còn giải quyết tranh chấp tại Toà án sẽ đảm bảo tính chính xác của phán quyết, đảm bảo tính cưỡng chế thi hành của bản án hoặc quyết định của Toà; tuy nhiên, sẽ mất nhiều thời gian và không bảo đảm quyền tự định đoạt của các đương sự như trọng tài. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các bên trong hợp đồng hợp tác kinh doanh sẽ lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp tối ưu cho tranh chấp (nếu có) giữa các bên.

    Nguồn: Đại Lý Thuế Gia Lộc

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *